Thế 
nào là thơ hay ? Trăm nhà trăm cách hiểu. Có lẽ câu của Hoàng Đức Lương ở đầu 
cuốn Trích 
diễm thi tập (nửa sau thế kỉ XV) là câu có sức gợi mạnh : “Gỏi và chả là vị 
tuyệt ngon trong thiên hạ, gấm và vóc là màu tuyệt đẹp trong thiên hạ. 4 
Phàm những người có miệng, có mắt ai cũng đều biết quý trọng không coi 
thường. Đến như thơ thì lại là sắc đẹp ở ngoài sắc đẹp, vị ngon ở ngoài vị ngon, 
không thể xem bằng con mắt thường, đọc bằng cái miệng thường…” (Hợp tuyển 
thơ văn thế kỉ X – XVII, tr. 523), NXB Văn học, Hà Nội, 1976).
 Như vậy biết thơ hay thường không dễ. 
Biết hay ở đâu, làm sao cho người khác cùng cảm thấy hay lại khó gấp bao lần. 
Mỗi thời mỗi hay, mỗi nơi mỗi hay, mỗi người mỗi hay, … Thơ hay dường như không 
bao giờ cạn. Do đó, một chỗ dựa rất cần. 
Bình 
thơ vốn là một truyền thống của ông cha xưa. Bình trước tiên là đọc có nghệ 
thuật, sau đó là góp ý kiến phẩm bình đôi ba lời. Đông người hay ít người cũng 
vậy. Còn nhiều ý nhiều lời thì ở bài tựa bài bạt, đó là chuyện khác. Phẩm bình 
thơ cũng không ít lí luận. Phương Tây có nhiều trường phái, chủ nghĩa. Phương 
Đông và nước ta từ quan niệm vũ trụ chuyển vào quan niệm văn chương, cảm thức 
thiên về tượng trưng, ngôn ngữ chuộng hàm súc, siêu ngôn, vô ngôn, trực cảm chứ 
không ham phân tích, tổng chi lấy cái thần làm chỗ quy tụ theo quan niệm thẩm mĩ 
Việt Nam mà nguyên lí “tinh khí thần” trong nghệ thuật tuồng là một biểu hiện 
sâu sắc. Người viết muốn gom góp một ít ánh sáng soi đường. Xưa có, nay có, thêm 
Tây mà không quên Đông, không được “giẫm lên bước chân” người đi trước nhưng 
cũng không ngại những trải nghiệm, thủ thuật riêng. Thơ hay như hoa quý. Vườn 
thơ là cả trời đất Việt, không chỉ là vườn ngự uyển. Hoa đồng cũng thi đẹp thi 
thơm bên những vần nhả ngọc phun châu. 
Kết 
tràng, cắm đĩa, chưng chậu không theo trường pháp mà theo nếp nhà: nếp sống, 
dòng sử của dân tộc, sử truyện tích qua các thời đại, sử tâm hồn, trái tim, trí 
tuệ, sử cái đẹp Việt Nam. 
Mỗi 
tràng, mỗi đĩa, mỗi chậu là một chùm từ 15 đến 29 đóa hoa đủ sắc, đủ hương, 
đủ vị : có ca dao – dân ca, có thơ theo dòng chảy văn học sử. Có giọng lên ngựa 
cầm thương, có giọng phe phẩy quạt ngâm ngợi dịu êm, có hùng ca, có trữ tình. 
Mong ước chọn được khoảng dăm ba chậu như thế. 
Không 
dừng ở sắc ở hương mà xuyên qua đó là tấm lòng, là trí dũng, nghĩa nhân, là yêu 
nước, nhân văn, nhân đạo ; một cái vốn chắc không đủ tiêu biểu cho toàn dân tộc, 
để từng con người Việt Nam tìm thấy mình trong tinh hoa nghìn đời tổ tiên tích 
tụ lại thành một bản lĩnh riêng. Bởi, vào thơ hay, dù là ở điệu kiên cường hay 
xuống làn êm thấm, dịu hiền, vẫn là vào một thế giới mới, thế giới của thẩm mĩ. 
Ở đó chỉ có cái đẹp, cái cao quý ; giọt nước mắt cũng thành ngọc, nỗi vui mừng 
nâng hồn lên tận chín tầng mây. Ở đó, một trái tim nối chặt với muôn trái tim. Ở 
đó, con người trở nên con người nhất, con người Việt Nam nhất. 
ĐẾN 
VỚI THƠ HAY nhằm 
tới cái diệu kì ấy của thơ.